Ngày 25/6/2018, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Luật Quốc phòng (Luật số 22/2018/QH14), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019, dưới đây là những nội dung cơ bản của Luật Quốc phòng năm 2018.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT
Luật Quốc phòng được Quốc hội Khóa XI thông qua ngày 14/6/2005 (Luật Quốc phòng năm 2005), có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Sau hơn 10 năm thực hiện đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Tuy nhiên, nhiều chủ trương, quan điểm mới của Đảng, quy định mới của Hiến pháp năm 2013 liên quan đến bảo vệ Tổ quốc, quốc phòng cần được thể chế và cụ thể hóa; một số nội dung của Luật Quốc phòng năm 2005 chưa thống nhất, đồng bộ với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) liên quan về quốc phòng; nhiều nội dung đang được điều chỉnh ở văn bản QPPL tính pháp lý chưa cao, chưa được điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa đầy đủ; quá trình thực hiện đã bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc, chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay, cụ thể như sau:
Thứ nhất, từ năm 2005 đến nay, Đảng ta đã ban hành các nghị quyết, chỉ thị với nhiều chủ trương, quan điểm mới về bảo vệ Tổ quốc, quốc phòng, an ninh cần phải được thể chế hóa như:
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định mục tiêu bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển là “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”; nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với quốc phòng, an ninh có sự phát triển là “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”; nhà nước quản lý “tập trung, thống nhất” đối với quốc phòng, an ninh; yếu tố văn hóa, đối ngoại được bổ sung trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và tiềm lực khu vực phòng thủ; kết hợp quốc phòng với kinh tế, văn hóa, xã hội và kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng.
Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới (Nghị quyết số 28-NQ/TW) đã có sự phát triển về phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới, xác định rõ và đồng bộ phương hướng, mục tiêu, quan điểm, yêu cầu, nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu về xây dựng khu vực phòng thủ; kiện toàn, bảo đảm các chế độ chính sách, đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ quân sự ở cơ sở.
Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 16/7/2011 của Bộ Chính trị (Khóa XI) xác định rõ chủ trương, quan điểm mới về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Ban Chấp hành Trung ương (Khóa XI) đã xác định mục tiêu, quan điểm, nội dung mới về Hội nhập quốc tế, trong đó chỉ rõ “…Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu; không tham gia vào các tập hợp lực lượng, các liên minh của bên này chống bên kia...”.
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 có nhiều quy định mới về bảo vệ Tổ quốc, quốc phòng; tuyên bố, công bố, bãi bỏ tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng; việc lực lượng vũ trang nhân dân thực hiện nghĩa vụ quốc tế, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới; xây dựng Quân đội nhân dân và dân quân tự vệ; Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bình đẳng giới; việc kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh và một số quy định khác liên quan đến quốc phòng. Trong khi đó, Luật Quốc phòng năm 2005 chưa quy định hoặc quy định chưa đầy đủ để phù hợp với Hiến pháp năm 2013.
Thứ ba, qua tổng kết 10 năm thực hiện Luật Quốc phòng năm 2005 trên phạm vi cả nước đã bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm, bất cập, nổi bật là: Việc quản lý điều hành và tổ chức thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân, mô hình, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, hệ thống phòng thủ quân khu chưa được quy định rõ; nhiệm vụ, mô hình xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định chưa đầy đủ; chính sách, pháp luật về quốc phòng chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, còn quy định ở nhiều văn bản QPPL, hiệu lực pháp lý thấp, chưa thống nhất, chậm thể chế hóa chủ trương, quan điểm mới của Đảng và cụ thể Hiến pháp, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng của các cấp, các ngành, địa phương có nơi còn hạn chế; một số địa phương chưa đầu tư đúng mức cho xây dựng thế trận và hoạt động của khu vực phòng thủ. Chất lượng xây dựng, huấn luyện, diễn tập, hoạt động và bảo đảm chế độ chính sách cho lực lượng vũ trang còn bất cập. Sự phối hợp, hướng dẫn, thực hiện nhiệm vụ về quốc phòng, các mặt bảo đảm cho quốc phòng, sẵn sàng động viên cho chiến tranh chưa ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trách nhiệm phối hợp trong hoạt động quốc phòng của một số bộ, ngành, địa phương thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Việc kết hợp giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng trên một số lĩnh vực, ngành, địa bàn chưa chặt chẽ. Tiềm lực quốc phòng, an ninh chưa tương xứng với sự phát triển của đất nước và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, khoa học và công nghệ quốc gia, huy động công nghiệp dân sinh cho quốc phòng chưa được coi trọng, chưa có chiến lược, cơ chế, chính sách đầy đủ để phát triển mạnh công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng, chưa đáp ứng yêu cầu vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang đối phó thắng lợi với các hình thái chiến tranh công nghệ cao trong tương lai. Bố trí, sử dụng nguồn lực cho quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ và xây dựng lực lượng vũ trang còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ tư, từ thực tiễn các cuộc chiến tranh, xung đột trên thế giới những năm gần đây và dự báo chiến tranh trong tương lai, ngoài chiến tranh truyền thống còn xuất hiện chiến tranh phi quy ước, chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng và việc sử dụng vũ khí công nghệ cao, tác chiến điện tử, tác chiến không gian mạng, an ninh phi truyền thống, sẽ được sử dụng là chủ yếu, ngay từ đầu và trong suốt cuộc chiến tranh. Mặt khác, thế giới đã và đang có nhiều thay đổi khó lường về phương thức, quy mô, phạm vi, không gian, thời gian, môi trường, lực lượng và thủ đoạn tác chiến... để tiến hành chiến tranh. Nhằm chủ động ngăn ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi và đối phó thắng lợi trong mọi tình huống, đánh bại mọi hình thức chiến tranh xâm lược nếu xảy ra, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Quốc phòng năm 2005 tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và cao hơn nhằm đáp ứng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc xây dựng, ban hành Luật Quốc phòng năm 2018 là cần thiết.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT
1. Mục đích ban hành Luật
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật
- Giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, dân quân tự vệ và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
- Thể chế quan điểm, chủ trương mới của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ Tổ quốc, quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, bảo đảm tính hợp hiến và thống nhất của Luật Quốc phòng với các quy định của pháp luật có liên quan.
- Tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn và quy định của pháp luật hiện hành về quốc phòng; bổ sung những quy định mới đã được thực tiễn kiểm nghiệm và chứng minh thấy phù hợp; bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định của pháp luật hiện hành về quốc phòng, đồng thời tập trung những quy định quan trọng về quốc phòng của các văn bản QPPL có liên quan vào Luật Quốc phòng.
- Xây dựng Luật Quốc phòng năm 2018 theo hướng là luật khung, chỉ quy định mang tính nguyên tắc, chính sách lớn về quốc phòng, bảo đảm hợp hiến, phù hợp, thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện hành về quốc phòng, an ninh và pháp luật có liên quan.
- Nghiên cứu những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, các nhóm giải pháp, kiến nghị, đề nghị được rút ra từ tổng kết 10 năm thực hiện Luật Quốc phòng hiện hành để bảo đảm tính thực tiễn, khả thi.
- Bảo đảm tính công khai, dân chủ, minh bạch và dễ tiếp cận; tiếp thu những ý kiến hợp lý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình soạn thảo.
- Nghiên cứu có chọn lọc pháp luật của một số nước trên thế giới về quốc phòng, vận dụng phù hợp với điều kiện nước ta.
III. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
A. Bố cục của Luật
Luật Quốc phòng năm 2018 có 7 chương, 40 điều, giảm 2 chương và 11 điều so với Luật Quốc phòng năm 2005. Đây là Luật rất quan trọng, chi phối toàn bộ hệ thống pháp luật về quốc phòng, tác động đến hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Luật Quốc phòng năm 2018 đã thể chế đầy đủ quan điểm, đường lối của Đảng về quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc; đồng thời đã cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, thống nhất với hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh và pháp luật liên quan. Đặc biệt, Luật có nhiều quy định mới, tạo khuôn khổ pháp lý quan trọng để tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, hình thái chiến tranh tương lai có nhiều thay đổi, phát triển mới, cụ thể:
Chương I. Những quy định chung
Chương này gồm 6 điều (từ Điều 1 đến Điều 6), quy định phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; nguyên tắc hoạt động quốc phòng; chính sách của Nhà nước về quốc phòng; quyền và nghĩa vụ của công dân về quốc phòng; các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực quốc phòng.
Chương II. Hoạt động cơ bản về quốc phòng
Chương này gồm 10 điều (từ Điều 7 đến Điều 16), quy định nền quốc phòng toàn dân; phòng thủ quân khu; khu vực phòng thủ; giáo dục quốc phòng và an ninh; động viên quốc phòng; công nghiệp quốc phòng, an ninh; phòng thủ dân sự; đối ngoại quốc phòng; kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc phòng; công tác quốc phòng ở Bộ, ngành trung ương, địa phương.
Chương III. Tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, thiết quân luật, giới nghiêm
Chương này gồm 6 điều (từ Điều 17 đến Điều 22), quy định tuyên bố, công bố, bãi bỏ tình trạng chiến tranh; ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp về quốc phòng; tổng động viên, động viên cục bộ; quyền hạn của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng; thiết quân luật; giới nghiêm.
Chương IV. Lực lượng vũ trang nhân dân
Chương này gồm 6 điều (từ Điều 23 đến Điều 28), quy định thành phần, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân; nguyên tắc hoạt động và trường hợp sử dụng lực lượng vũ trang nhân dân; quân đội nhân dân; Công an nhân dân; Dân quân tự vệ; chỉ huy Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Dân quân tự vệ.
Chương V. Bảo đảm quốc phòng
Chương này gồm 5 điều (từ Điều 29 đến Điều 33), quy định bảo đảm nguồn nhân lực; bảo đảm nguồn lực tài chính; bảo đảm tài sản phục vụ quốc phòng; bảo đảm phục vụ quốc phòng trong lĩnh vực kinh tế - xã hội và đối ngoại; bảo đảm hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân.
Chương VI. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức về quốc phòng
Chương này gồm 6 điều (từ Điều 34 đến Điều 39), quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Quốc phòng; nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, ngành trung ương; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp; nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân các cấp; nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Chương VII. Điều khoản thi hành
Chương này có 01 điều (Điều 40) quy định hiệu lực thi hành.
B. Những nội dung cơ bản của Luật
1. Những quy định chung (Chương I)
- Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1)
Luật Quốc phòng năm 2018 bổ sung quy định về “ tình trạng chiến tranh”, “tình trạng khẩn cấp về quốc phòng”, “thiết quân luật”, “giới nghiêm”, “bảo đảm quốc phòng”, những nội dung này được Luật Quốc phòng năm 2018 quy định cụ thể tại Chương III, Chương V.
- Về giải thích từ ngữ (Điều 2)
Luật Quốc phòng năm 2018 không giải thích các từ ngữ: nền quốc phòng toàn dân; khu vực phòng thủ; thiết quân luật; giới nghiêm tại Điều 2 về giải thích từ ngữ mà giải thích các từ ngữ này tại các điều khác nhau trong Luật như: nền quốc phòng toàn dân (khoản 1 Điều 7); khu vực phòng thủ (khoản 1 Điều 9); thiết quân luật (khoản 1 Điều 21); giới nghiêm (khoản 1 Điều 22) đây là điểm mới so với Luật Quốc phòng 2005.
Đồng thời, Luật Quốc phòng năm 2018 bổ sung giải thích các từ ngữ: quân sự; chiến tranh nhân dân; thế trận quốc phòng toàn dân; phòng thủ đất nước; xâm lược; chiến tranh thông tin; thảm họa quy định tại Điều 2; phòng thủ quân khu (khoản 1 Điều 8); phòng thủ dân sự (khoản 1 Điều 13); kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc phòng (khoản 1 Điều 15); công tác quốc phòng ở Bộ, ngành trung ương, địa phương (khoản 1 Điều 16).
- Về nguyên tắc hoạt động quốc phòng (Điều 3)
Điều này được quy định trên cơ sở nội dung của Điều 5 Luật Quốc phòng năm 2005, trong đó điểm mới nổi bật là sửa đổi khoản 1 như sau: hoạt động quốc phòng “đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước” nhằm thể chế quan điểm, chủ trương mới của Đảng tại Nghị quyết Đại hội XII. Đồng thời, sửa đổi khoản 2, theo đó Luật Quốc phòng năm 2018 quy định “Củng cố, tăng cường quốc phòng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt” nhằm thể chế quan điểm của Đảng tại Nghị quyết số 28-NQ/TW năm 2013 của Ban chấp hành Trung ương Khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
- Về chính sách của Nhà nước về quốc phòng (Điều 4)
Kế thừa quy định của Điều 4 Luật Quốc phòng năm 2005 và để phù hợp với Hiến pháp năm 2013, thể chế quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước tại Nghị quyết số 28-NQ/TW, Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Ban Chấp hành TW (Khóa XI) về Hội nhập quốc tế, Nghị quyết số 806-NQ/QUTW ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương về Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo (Nghị quyết số 806-NQ/QUTW), Điều 4 Luật Quốc phòng năm 2018 đã sửa đổi theo hướng quy định đầy đủ, toàn diện chính sách nhà nước về quốc phòng, nhằm đảm bảo công khai, minh bạch về tính chất, mục đích quốc phòng Việt Nam là nền quốc phòng toàn dân để bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, Luật Quốc phòng năm 2018 đã bổ sung quy định chính sách của Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, công nghiệp quốc phòng, an ninh để phù hợp với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cụ thể Điều 4 quy định như sau: “Phát triển khoa học và công nghệ để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, công nghiệp quốc phòng, an ninh đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Về quyền và nghĩa vụ của công dân về quốc phòng (Điều 5)
Điều này xây dựng trên cơ sở kế thừa Điều 6 Luật Quốc phòng năm 2005, tuy nhiên có bổ sung một số quy định mới về quyền và nghĩa vụ của công dân về quốc phòng. Theo đó, Điều 5 Luật Quốc phòng năm 2018 quy định quyền và nghĩa vụ của công dân về quốc phòng như sau: 1. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. 2. Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc; phải thực hiện nghĩa vụ quân sự; có nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân; chấp hành biện pháp của Nhà nước và người có thẩm quyền trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. 3. Công dân được tuyên truyền, phổ biến đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng; giáo dục quốc phòng và an ninh; trang bị kiến thức, kỹ năng về phòng thủ dân sự theo quy định của pháp luật. 4. Công dân phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân hoặc được huy động làm nhiệm vụ quốc phòng thì bản thân và thân nhân được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật. 5. Công dân bình đẳng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.
- Về các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực quốc phòng (Điều 6)
Kế thừa một số nội dung quy định tại khoản 4 Điều 4; khoản 3 Điều 12; khoản 4 Điều 13 Luật Quốc phòng năm 2005 và bổ sung các quy định mới, Luật Quốc phòng năm 2018 bổ sung một điều quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực quốc phòng. Theo đó, có các hành vi sau bị nghiêm cấm trong lĩnh vực quốc phòng: 1. Chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, Nhân dân, Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2. Thành lập, tham gia, tài trợ tổ chức vũ trang trái pháp luật. 3. Điều động, sử dụng người, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, trang bị, thiết bị, phương tiện để tiến hành hoạt động vũ trang khi chưa có lệnh hoặc quyết định của cấp có thẩm quyền hoặc không có trong kế hoạch huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu đã được phê duyệt. 4. Chống lại hoặc cản trở cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. 5. Lợi dụng, lạm dụng việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng để xâm phạm lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 6. Phân biệt đối xử về giới trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng (phù hợp với Điều 14 Hiến pháp năm 2013).
2. Hoạt động cơ bản về quốc phòng (Chương II)
- Về nền quốc phòng toàn dân (Điều 7)
Kế thừa quy định tại khoản 2, Điều 3 Luật Quốc phòng năm 2005, khoản 1 Điều 7 Luật Quốc phòng năm 2018 giải thích nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nước, được xây dựng trên nền tảng chính trị, tinh thần, nhân lực, vật lực, tài chính, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường.
Ngoài ra, kế thừa các quy định của Điều 8 Luật Quốc phòng năm 2005, khoản 2 Điều 7 Luật Quốc phòng năm 2018 đã quy định 11 nội dung cơ bản xây dựng nền quốc phòng toàn dân, đây là những nội dung có tính xuyên suốt của hoạt động quốc phòng: 1. Xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc, kế hoạch phòng thủ đất nước; nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và hệ thống chính trị vững mạnh. 2. Xây dựng thực lực, tiềm lực quốc phòng; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, có sức chiến đấu cao, làm nòng cốt bảo vệ Tổ quốc. 3. Xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật; phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, khoa học, công nghệ quân sự; huy động tiềm lực khoa học, công nghệ của Nhà nước và Nhân dân phục vụ quốc phòng; ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ quân sự phù hợp để xây dựng đất nước. 4. Xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch bảo đảm nhu cầu dự trữ quốc gia cho quốc phòng; chuẩn bị các điều kiện cần thiết bảo đảm động viên quốc phòng. 5. Xây dựng phòng thủ quân khu, khu vực phòng thủ vững chắc toàn diện, hợp thành phòng thủ đất nước; củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh ở các vùng chiến lược, trọng điểm, biển, đảo, khu vực biên giới, địa bàn xung yếu; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong phạm vi cả nước. 6. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch, biện pháp về chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng. 7. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch, biện pháp phòng thủ dân sự trong phạm vi cả nước. 8. Đối ngoại quốc phòng. 9. Kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc phòng; kết hợp quốc phòng với an ninh, đối ngoại. 10. Xây dựng và bảo đảm chế độ, chính sách đối với lực lượng vũ trang nhân dân, thân nhân của người phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân. 11. Tuyên truyền, phổ biến đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng; thực hiện giáo dục quốc phòng và an ninh.
- Về phòng thủ quân khu (Điều 8)
Luật Quốc phòng năm 2018 đã bổ sung quy định về phòng thủ quân khu tại Điều 8 để phù hợp với Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới, tạo hành lang pháp lý khắc phục những vướng mắc, bất cập trong xây dựng và hoạt động phòng thủ quân khu thời gian qua, phù hợp với thực tiễn xây dựng và lịch sử phát triển trên 70 năm của các quân khu. Theo đó, Luật Quốc phòng năm 2018 quy định phòng thủ quân khu là bộ phận hợp thành phòng thủ đất nước, bao gồm các hoạt động xây dựng thực lực, tiềm lực quốc phòng, thế trận quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trên địa bàn quân khu. Nhiệm vụ phòng thủ quân khu bao gồm: 1. Xây dựng kế hoạch, tổ chức chuẩn bị và thực hiện phòng thủ quân khu. 2. Xây dựng cơ quan, đơn vị của quân khu vững mạnh toàn diện, có sức chiến đấu cao, Dân quân tự vệ trên địa bàn quân khu vững mạnh và rộng khắp. 3. Xây dựng kế hoạch và chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan, đơn vị của quân khu; phối hợp các cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương liên quan thực hiện phòng thủ dân sự và các biện pháp về chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng. 4. Chỉ đạo, hướng dẫn, phối hợp xây dựng khu vực phòng thủ thành thế liên hoàn, vững chắc toàn diện; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn quân khu. 5. Chỉ đạo, hướng dẫn, phối hợp địa phương kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế - xã hội trong lập quy hoạch, kế hoạch, dự án và tham gia thẩm định theo thẩm quyền; kết hợp quốc phòng với an ninh, đối ngoại; tham gia xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; xây dựng, quản lý các khu kinh tế - quốc phòng được giao; giáo dục quốc phòng và an ninh; tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quốc phòng; xây dựng và thực hiện kế hoạch động viên quốc phòng; chính sách hậu phương quân đội, chính sách ưu đãi người có công với cách mạng trên địa bàn quân khu. 6. Phối hợp đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, địa phương và cơ quan, tổ chức liên quan thực hiện quản lý nhà nước về biên giới quốc gia; duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu, hải đảo, vùng biển và vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên địa bàn quân khu; thực hiện đối ngoại quốc phòng. 7. Phối hợp địa phương, cơ quan, tổ chức liên quan chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan, đơn vị của quân khu tham gia xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. 8. Phối hợp cơ quan, đơn vị Công an nhân dân và lực lượng khác trong bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm. 9. Thực hiện nhiệm vụ khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giao.
Luật Quốc phòng năm 2018 giao Chính phủ quy định việc chỉ đạo, chỉ huy, mối quan hệ phối hợp, công tác bảo đảm và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về phòng thủ quân khu.
- Về khu vực phòng thủ (Điều 9)
Kế thừa khoản 4 Điều 3 Luật Quốc phòng năm 2005, Luật Quốc phòng năm 2018 quy định khu vực phòng thủ là bộ phận hợp thành phòng thủ quân khu, bao gồm các hoạt động về chính trị, tinh thần, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, quân sự, an ninh, đối ngoại; được tổ chức theo địa bàn cấp tỉnh, cấp huyện, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, lấy xây dựng cấp xã làm nền tảng để bảo vệ địa phương. Điểm mới nổi bật của nội dung này là quy định đối ngoại là một trong những tiềm lực trong khu vực phòng thủ (điểm b khoản 2 Điều 9), đây là sự phát triển mới, nhằm thể chế quan điểm của Đảng bảo vệ tổ quốc từ xa, từ sớm và bổ sung quy định khu vực phòng thủ Thủ đô Hà Nội là bộ phận hợp thành phòng thủ đất nước (khoản 3 Điều 9), để phù hợp với tính chất nhiệm vụ đặc thù của Thủ đô Hà Nội và quy định của Luật Thủ đô.
- Về giáo dục quốc phòng và an ninh (Điều 10)
Kế thừa các quy định của Chương 3 Luật Quốc phòng năm 2005, để thể chế Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới và thống nhất với các quy định của Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh năm 2013, Luật Quốc phòng năm 2018 sửa đổi, bổ sung nội dung này theo hướng quy định giáo dục quốc phòng và an ninh được thực hiện trong phạm vi cả nước với nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp cho từng đối tượng. Nhiệm vụ giáo dục quốc phòng và an ninh bao gồm: 1. Giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên, người học trong các trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. 2. Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng trong cơ quan, tổ chức của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, người quản lý doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong cộng đồng dân cư. 3. Phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân. Giáo dục quốc phòng và an ninh được thực hiện theo quy định của Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh và quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Về động viên quốc phòng (Điều 11)
Kế thừa Điều 10 Luật Quốc phòng năm 2005, Luật Quốc phòng năm 2018 quy định động viên quốc phòng là tổng thể các hoạt động và biện pháp huy động mọi nguồn lực của đất nước hoặc một số địa phương phục vụ cho quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ động viên quốc phòng bao gồm: 1. Động viên mọi nguồn lực của nền kinh tế quốc dân bảo đảm cho quốc phòng. 2. Động viên bảo đảm nhu cầu quốc phòng năm đầu chiến tranh. 3. Xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên; xây dựng và mở rộng lực lượng Dân quân tự vệ. 4. Động viên công nghiệp. 5. Chuyển tổ chức, hoạt động của các Bộ, ngành trung ương, địa phương từ thời bình sang thời chiến. 6. Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật có liên quan. Việc tổ chức xây dựng kế hoạch và biện pháp thực hiện động viên quốc phòng theo quy định của Chính phủ.
- Công nghiệp quốc phòng, an ninh (Điều 12)
Nội dung này được xây dựng trên cơ sở kế thừa Chương 4 Luật Quốc phòng năm 2005 đồng thời bổ sung một số nội dung nhằm xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh trong một chỉnh thể thống nhất, không tách rời nhau, do nhà nước quản lý, điều hành, phù hợp với chủ trương, quan điểm của Đảng, nhất là Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Ban chấp hành Trung ương về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Điều 68 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, Luật Quốc phòng năm 2018 quy định: 1. Công nghiệp quốc phòng, an ninh là bộ phận của công nghiệp quốc gia, một phần quan trọng của thực lực, tiềm lực quốc phòng, an ninh, là ngành đặc thù, có nhiệm vụ nghiên cứu phát triển, sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị, vật tư, thiết bị kỹ thuật và các sản phẩm khác phục vụ quốc phòng, an ninh bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân. 2. Nhà nước có chính sách, cơ chế đặc thù, xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; tăng cường tiềm lực, tận dụng và phát triển liên kết công nghiệp quốc phòng, an ninh và công nghiệp dân sinh; huy động tối đa thành tựu của nền công nghiệp quốc gia phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh; đầu tư có trọng điểm cho vũ khí, trang bị công nghệ cao; phát huy nội lực kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế. 3. Chính phủ chỉ đạo xây dựng quy hoạch, kế hoạch, đề án để phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. 4. Nguyên tắc, chính sách, nhiệm vụ, tổ chức hoạt động, quy hoạch, kế hoạch, nguồn lực, trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan, tổ chức thực hiện theo quy định của pháp luật về công nghiệp quốc phòng, an ninh và quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Về phòng thủ dân sự (Điều 13)
Nội dung này được xây dựng trên cơ sở kế thừa Chương 5 Luật Quốc phòng năm 2005 đồng thời luật hóa một số quy định quan trọng của Nghị định số 117/2008/NĐ-CP ngày 14/11/2008 của Chính phủ về phòng thủ dân sự. Theo đó, Luật Quốc phòng năm 2018 quy định phòng thủ dân sự là bộ phận của phòng thủ đất nước bao gồm các biện pháp phòng, chống chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ Nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân. Nhiệm vụ phòng thủ dân sự bao gồm: 1. Xây dựng cơ chế hoạt động, kế hoạch phòng thủ dân sự. 2. Tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng, tập huấn, huấn luyện, diễn tập. 3. Xây dựng hệ thống công trình phòng thủ dân sự. 4. Xây dựng hệ thống tiếp nhận, xử lý thông tin, nghiên cứu dự báo, cảnh báo, thông báo, báo động. 5. Thực hiện các biện pháp phòng thủ dân sự. Lực lượng phòng thủ dân sự bao gồm: 1. Lực lượng nòng cốt gồm Dân quân tự vệ; Công an xã, phường, thị trấn; lực lượng chuyên trách hoặc kiêm nhiệm của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và các Bộ, ngành trung ương, địa phương. 2. Lực lượng rộng rãi do toàn dân tham gia. Luật Quốc phòng năm 2018 giao Chính phủ quy định chi tiết về phòng thủ dân sự.
- Về đối ngoại quốc phòng (Điều 14)
Đối ngoại quốc phòng đã được quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật Quốc phòng năm 2005, tuy nhiên để thể chế Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế, Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, Luật Quốc phòng năm 2018 đã bổ sung một điều quy định về đối ngoại quốc phòng. Theo đó, đối ngoại quốc phòng để thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng bao gồm: 1. Thiết lập, phát triển quan hệ quốc phòng với các quốc gia có chủ quyền và các tổ chức quốc tế. 2. Xây dựng, mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế; thực hiện đối thoại về quốc phòng; xây dựng, củng cố lòng tin, sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, tình đoàn kết giữa Quân đội nhân dân Việt Nam với quân đội các nước trên thế giới. 3. Tham gia xây dựng và thực thi các cơ chế hợp tác quốc phòng song phương, đa phương, khu vực, liên khu vực và toàn cầu vì mục tiêu hòa bình, ổn định và phát triển. 4. Thông tin đối ngoại về quốc phòng. Nguyên tắc, nội dung, hình thức đối ngoại quốc phòng và trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan, tổ chức thực hiện theo quy định của pháp luật.
- Về kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc phòng (Điều 15)
Kế thừa quy định của Luật Quốc phòng năm 2005, Luật Quốc phòng năm 2018 quy định kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc phòng là sự gắn kết mọi hoạt động quốc phòng với các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội có sự thống nhất quản lý, điều hành của Nhà nước để góp phần củng cố, tăng cường quốc phòng, phát triển kinh tế - xã hội. Luật Quốc phòng năm 2018 quy định đầy đủ, toàn diện về trách nhiệm, quyền hạn của Bộ Quốc phòng trong việc cho ý kiến, tham gia thẩm định đối với việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án của các bộ, ngành địa phương phù hợp với Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư và các quy định khác của pháp luật có liên quan (điểm d khoản 2 Điều 15). Đồng thời, Luật Quốc phòng năm 2018 quy định một số dự án đầu tư xây dựng ở địa bàn trọng điểm về quốc phòng phải có tính lưỡng dụng, sẵn sàng chuyển sang phục vụ nhu cầu quốc phòng (điểm e khoản 2 Điều 15) để thể chế Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Kết luận số 31-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược quân sự Việt Nam, đây là những điểm mới của Luật Quốc phòng năm 2018 .
- Về công tác quốc phòng ở Bộ, ngành trung ương, địa phương (Điều 16)
Công tác quốc phòng ở Bộ, ngành trung ương, địa phương hiện nay đang được quy định tại Nghị định số 119/2004/NĐ-CP ngày 11/5/2004 của Chính phủ về công tác quốc phòng ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương. Luật Quốc phòng năm 2018 đã dành một điều quy định về công tác quốc phòng ở Bộ, ngành trung ương, địa phương để nâng cao tính pháp lý của vấn đề này. Theo đó, công tác quốc phòng ở Bộ, ngành trung ương, địa phương là hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo thẩm quyền; Luật Quốc phòng năm 2018 quy định bộ, ngành trung ương có ban chỉ huy quân sự làm việc theo chế độ kiêm nhiệm để tham mưu và tổ chức thực hiện công tác quốc phòng. Ngoài ra, Luật Quốc phòng năm 2018 cũng quy định địa phương có cơ quan thường trực công tác quốc phòng là cơ quan quân sự địa phương cùng cấp để phù hợp với thực tiễn đã và đang thực hiện. Luật Quốc phòng năm 2018 giao Chính phủ quy định chi tiết về công tác quốc phòng ở Bộ, ngành trung ương, địa phương.
Nguồn: Đ/c Hồ Văn Hiển - PCT UBND xã
Tin mới cập nhật
- MỘT SỐ CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT CÓ HIỆU LỰC TỪ THÁNG 04/202 ( 05/04)
- DANH MỤC CÁC VĂN BẢN QPPL MỚI CÓ HIỆU LỰC TỪ THÁNG 04/2023 ( 05/04)
- DANH MỤC CÁC VĂN BẢN QPPL MỚI CÓ HIỆU LỰC TỪ THÁNG 7/2022 ( 05/07)
- NỘI DUNG VÀ ĐỊA CHỈ TIẾP NHẬN PHẢN ÁNH, KIẾN NGHỊ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH ( 10/12)
- Đề cương giới thiệu Quyết định số 1453/QĐ-LĐTBXH ngày 09/10/2019 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về Phê duyệt Kế hoạch triển khai Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới năm 2019 ( 22/10)
© Đảng ủy, HĐND, UBND, UB MTTQ xã Kỳ Thọ
Địa chỉ: Xã Kỳ Thọ, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh
Email: ubkytho.ka@hatinh.gov.vn
Trưởng ban biên tập: Phạm Đình Sinh - Phó chủ tịch UBND xã
Điện thoại: 0988 978 994